Chương 6: PHƯƠNG PHÁP CHỮA LÀNH KHÔNG ĐỘC HẠI (Phần 1)
“Tất cả kiến thức của tôi được học bằng cách đứng trên vai những thiên tài”– Bác sĩ Albert Schweitzer
Lý do tôi bắt đầu chương này với trích dẫn trên là vì tôi muốn làm rõ rằng những liệu pháp điều trị này, về thực chất, không phải là “của tôi”. Chúng được các chuyên gia y tế hành nghề tự do tạo ra, thử nghiệm và đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị ung thư. Tôi chỉ tổng kết giúp bạn những thông tin tiện dùng và dễ hiểu, vì gần như không thể tìm ra được trong hàng triệu trang web về ung thư, phải lội qua những tuyên truyền dối trá của mafia y tế, và nhận ra sự thật về liệu pháp điều trị ung thư thay thế.
Toàn bộ chương này được dành cho các liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại đã được chứng minh có hiệu quả nhất trong điều trị ung thư cấp (giai đoạn III và IV). Tiêu đề của chương này làm nổi bật sự khác biệt chính giữa liệu pháp điều trị ung thư chính thống và liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Không có ngoại lệ, tất cả các liệu pháp điều trị ung thư chính thống đều độc hại, trong khi tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công đều không độc hại.
Trở lại năm 2006, báo chí dường như choáng váng thực sự khi Coretta Scott King (góa phụ của mục sư Martin Luther King, Jr.) chết vì ung thư tại một cơ sở điều trị ung thư thay thế ở Mexico. Những gì báo chí không nêu ra là y học chính thống đã đầu hàng không chữa được cho bà và để bà chết. Không có gì ngạc nhiên khi bà ấy muốn tìm kiếm thông tin về các phương pháp thay thế. Thật đáng buồn, bà ấy đã quá muộn.
Sự thật là nhiều bệnh nhân chỉ tìm kiếm phương pháp thay thế sau khi họ đã bị cắt bỏ, đầu độc và đốt cháy bởi Big 3. Đổ lỗi cho một phòng khám ung thư thay thế cho cái chết của một bệnh nhân giai đoạn cuối khi họ bước chân vào phòng khám cũng giống như đổ lỗi cho một nhân viên cửa hàng ô tô làm tổn hại chiếc xe bạn kéo đến sau khi nó đã tan tành trong một vụ va chạm nghiêm trọng. Nhưng thật không may, đây lại là thời điểm mà hầu hết bệnh nhân ung thư mới quyết định thử liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Nếu bạn bị ung thư, tin vui là có hy vọng với liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Hy vọng thật sự. Không phải hy vọng dối trá mà bác sĩ cung cấp cho bạn khi cố gắng thuyết phục bạn điều trị bằng Big 3. Hãy nhớ rằng, đó là những gì họ đã được dạy ở trường y, nên đó là tất cả những gì họ biết. Khi bác sĩ của bạn tỏ ra nghi ngờ về một liệu pháp chữa trị tự nhiên mới, bạn có thể đặt cược là ông ấy chỉ nhai lại những điều dối trá mà ông ấy đã đọc trên tạp chí y khoa mới nhất được Big Pharma tài trợ
Sự thật đau lòng là mafia y tế hoàn toàn không quan tâm đến việc cứu người. Theo Walter Last: “Có sự đàn áp quy mô lớn đối với các liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, và bức hại các nhà trị liệu tự nhiên thành công. Cái cớ cho việc đàn áp này là sự khẳng định liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên chưa được khoa học chứng minh là có hiệu quả, và điều trị như thế thì dù vô hại cũng có thể trì hoãn điều trị ung thư chính thống đạt hiệu quả cao hơn. Lập luận này thật nực cười nếu không phải là quá bi thảm cho hàng triệu người phải chịu thiệt hại.”
Sao lại “không có bằng chứng khoa học chính thức” cho liệu pháp điều trị thay thế? Điều quan trọng này cần được hiểu rõ. Theo Webster Kehr, “lý do không có ‘bằng chứng khoa học chính thức cho liệu pháp điều trị ung thư thay thế là vì chúng không đem lại lợi nhuận cao cho Big Pharma. Theo luật, một chất chỉ được xem là có ‘bằng chứng khoa học’ nếu Big Pharma trình lên FDA, và họ sẽ chỉ trình nộp những thứ rất sinh lời cho họ. Thế nên, hàng ngàn nghiên cứu về các chất tự nhiên đã chữa hoặc điều trị khỏi ung thư không có ‘bằng chứng khoa học’ và bị chính phủ phớt lờ, bởi chúng không được thực hiện dưới sự kiểm soát của Big Pharma”.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của mafia y tế nhằm ngăn chặn và chà đạp hoàn toàn sự thật về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế, đôi khi thông tin về một liệu pháp điều trị hiệu quả vẫn thoát ra là nhờ phần lớn vào Internet. Nhưng mafia đã chuẩn bị cho trường hợp như vậy và có hẳn quy trình hoạt động tiêu chuẩn đối với những “rò rỉ” này. Thông thường, họ xử lý theo một trong những cách sau đây:
Các bản giám định kết luận “không đáng tin” hay “hoang đường”. Các liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bỏ qua và bị đàn áp. Các bệnh nhân được cho là đã trải qua “thuyên giảm tự phát” không liên quan gì đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Các bệnh nhân được cho là được chữa khỏi bởi những tác động chậm của liệu pháp điều trị ung thư chính thống. Các bác sĩ thực hiện liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bức hại.
Đừng tin vào những lời nói dối của mafia y tế! Có một số liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại hiệu quả với bệnh nhân ung thư cấp. Tuy nhiên, do thực tế là Big Pharma bơm hàng tỷ đô la vào quảng cáo mỗi năm, bạn có lẽ chỉ quen thấy liệu pháp điều trị ung thư Big 3. Hầu hết các liệu pháp điều trị ung thư thay thế đều không tốn kém và không thể cấp độc quyền nhãn hiệu, không cung cấp cho công nghiệp ung thư một xu lợi tức nào; do đó, chúng gần như không có chút tiếng tăm
Hãy nhớ rằng, các liệu pháp điều trị thay thế thành công nhắm đến các tế bào ung thư và không làm tổn hại các tế bào khỏe mạnh. Đây là sự khác biệt cốt lõi giữa các phác đồ điều trị ung thư thay thế và các phác đồ ung thư chính thống, dùng chất độc không chọn lọc (tức là tiêu diệt tất cả mọi tế bào, kể cả tế bào khỏe mạnh). Liệu pháp điều trị ung thư thay thế tập trung vào việc làm sạch cơ thể và kích thích hệ miễn dịch tự nhiên với các chế độ ăn đặc biệt, thực phẩm bổ sung cũng như việc giải độc và tăng cường ô-xy.
Các bác sĩ sử dụng liệu pháp thay thế coi ung thư là bệnh hệ thống (liên quan đến toàn bộ cơ thể); họ tập trung vào việc điều trị gốc rễ của bệnh, chứ không phải khối u, thứ chỉ đơn thuần là triệu chứng. Vậy tại sao toàn bộ các bác sĩ không gia nhập trào lưu này và bắt đầu điều trị ung thư bằng những liệu pháp thực sự hiệu quả?
Tôi đã nghiên cứu hơn 300 liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại. Chương này tập trung vào các liệu pháp điều trị hiệu quả nhất trong số đó. Nếu bị ung thư cấp tính, bạn bị coi là “giai đoạn cuối”. Bạn không có thời gian để lãng phí với những liệu pháp điều trị ung thư chưa được chứng minh. Thời gian đang dần cạn! Sau khi xem xét cẩn thận và nghiên cứu rất nhiều, tôi trình bày chi tiết các liệu pháp điều trị ung thư không độc hại hiệu quả nhất trong chương này. Một số là những liệu pháp điều trị độc lập trong khi những liệu pháp khác có thể kết hợp.
Những liệu pháp điều trị trong chương này được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái (tiếng Anh), chứ không phải theo tỷ lệ thành công của chúng. Thành thật mà nói, đây là những liệu pháp điều trị mà nếu tôi bị ung thư cấp, tôi sẽ nghĩ đến. Có chắc chắn thành công không? Không thể chắc chắn được. Nhưng nếu bị ung thư cấp, gần như bạn đã được kết “án tử hình” từ bác sĩ và cơ bản là bạn có 0% cơ hội sống sót nếu theo liệu pháp điều trị ung thư chính thống.
Trừ khi có quy định khác, các liệu pháp điều trị ung thư không độc hại tiên tiến này không bao giờ được kết hợp, ngoại trừ trong thử nghiệm lâm sàng. Đây là do liều lượng cho các liệu pháp điều trị này được thiết lập dựa trên khả năng cơ thể loại bỏ các tế bào ung thư chết. Bằng cách kết hợp các liệu pháp điều trị tại nhà, số lượng tế bào ung thư chết có thể là quá cao và có thể xảy ra độc tính. Nếu bạn quyết định điều trị với một (hoặc nhiều hơn) trong các liệu pháp điều trị này tại nhà, điều quan trọng là bạn phải làm xét nghiệm chính thức (trước, trong, và sau) để đảm bảo hết ung thư hoàn toàn trước khi ngừng điều trị. Tôi khuyên bạn nên xét nghiệm AMAS2 . Không giống như các xét nghiệm CEA3 và PSA4 , xét nghiệm AMAS đo một kháng thể được xác định rõ.
Aloe Arborescens
Năm 1988, trong khi đứng đầu chủ trì khu phố ổ chuột của Rio Grande do Sul, Brazil, Cha Romano Zago (học giả và tu sĩ dòng Phanxicô) đã học được từ người bản xứ địa phương một công thức hoàn toàn tự nhiên và hiệu nghiệm bắt nguồn từ cây Aloe Arborescens, mà họ sử dụng để tăng cường sức khỏe miễn dịch. Ông bắt đầu giới thiệu cho bạn bè và nhà thờ, và đây là nơi ông lần đầu quan sát thấy những kết quả tích cực từ Aloe Arborescens.
Zago được cử đến Jerusalem và Ý, tại đó ông tiếp tục chứng kiến thành công to lớn trong việc cải thiện hệ miễn dịch của những người sử dụng công thức làm từ toàn bộ lá của cây Aloe Arborescens mọc tự nhiên ở các vùng đó. Điều này khích lệ ông cống hiến cuộc đời mình cho nghiên cứu và giáo dục về Aloe Arborescens vì lợi ích của nhân loại trên toàn thế giới. Cuối cùng, Zago đã xuất bản hai cuốn sách về công thức Aloe Arborescens Brazil như sau:
1. Nửa kg mật ong nguyên chất (không phải mật ong tổng hợp hoặc tinh chế)
2. 350 gam lá Aloe Arborescens (khoảng 3 hoặc 4 lá, tùy thuộc vào kích thước của lá).
3. 40-50 ml (6-8 thìa cà phê) sản phẩm chưng cất cồn (uýt-ki, rượu cô-nhắc, hoặc cồn nguyên chất khác) để bảo quản sản phẩm và có tác dụng làm giãn mạch máu. Các sản phẩm chưng cất chỉ chiếm 1% trong công thức, nhưng rất quan trọng.
Liều lượng tính bằng thìa canh, một thìa canh là một liều. Dùng mỗi lần một liều, ba lần một ngày (tức là, ba thìa canh mỗi ngày). Uống khi bụng đói, 10 đến 20 phút trước bữa ăn. Lắc chai thật kỹ trước khi rót ra thìa. Và nhớ rằng thuốc không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Trong thực tế, khi sử dụng thuốc phải cố gắng tránh tối đa mọi loại ánh sáng. Uống ngay lập tức sau khi rót thuốc ra thìa.
Nói chung, thuốc phải được bảo quản ở chỗ tối và mát mẻ. Liệu pháp điều trị này sẽ làm sạch cơ thể của bạn. Giống như với mọi phác đồ thải độc, có thể sẽ có một số trải nghiệm khó chịu. Có thể phải trải qua một loạt các triệu chứng giải độc. Điều quan trọng là bệnh nhân không được ngừng phác đồ điều trị cho đến khi ung thư thuyên giảm hoàn toàn. Nếu không, ung thư sẽ có khả năng tái phát.
Vì là sản phẩm thực vật nguyên chất (gồm mật ong và một sản phẩm chưng cất), nên nó có thể được bổ sung vào bất kỳ điều trị không độc hại nào khác. Trong thực tế, đây là một điều trị “bổ sung” tuyệt vời để sử dụng kết hợp với các phác đồ khác. Mặc dù tôi ghét đề cập đến hóa trị liệu, nhưng phác đồ này có thể kết hợp với hóa trị và làm giảm đáng kể các tác dụng phụ. Liệu pháp này cũng đã được chứng minh là làm nhẹ bớt ảnh hưởng của xạ trị.
Công thức có vẻ khá đơn giản, nhưng nếu bạn thực sự muốn làm ở nhà thì có nhiều quy tắc quan trọng về việc khi nào cắt lá, xử lý lá ra sao, v.v.. Nếu quyết định làm ở nhà, bạn cần đọc cuốn sách của Zago mang tên Cancer Can Be Cured! (Có thể chữa khỏi ung thư!). Cuốn sách cũng đưa ra một thư mục bách khoa thông tin hiện đại về các nghiên cứu khoa học và các chứng thực đặc tính chữa bệnh của Aloe arborescens.
Đã có nhiều công bố nghiên cứu khoa học và tài liệu về lợi ích tổng hợp của 300 liệu pháp thảo dược hóa sinh và thành phần dinh dưỡng của nha đam trong việc tăng sức đề kháng của cơ thể và thúc đẩy hệ miễn dịch cũng chống lại bệnh tật. Tuy nhiên, đây là cuốn sách đầu tiên tiết lộ tiềm năng được tìm thấy trong thành phần của “cây họ hàng” là Aloe Arborescens, trong đó có chứa nhiều hơn 200% các chất dược liệu so với cây nha đam và gần như nhiều hơn đến 100% đặc tính chống ung thư.
Zago cũng đã viết một cuốn sách khác (về các bệnh khác không phải ung thư) mang tên Aloe Isn’t Medicine, and Yet… It Cure (Aloe không phải là thuốc, thế nhưng… chữa khỏi bệnh).
Các liệu pháp ô-xy hóa sinh học
Cơ thể có thể tồn tại vài tuần không thức ăn, vài ngày không nước uống, nhưng chỉ vài phút nếu không có ô-xy. Cơ thể chúng ta được cấu tạo chủ yếu là nước, trong đó hơn 90% là ô-xy. Mỗi tế bào của cơ thể đòi hỏi được cung cấp ô-xy không ngừng để nuôi các phản ứng hóa học tạo ra năng lượng, giải độc chất thải, và duy trì sản sinh các thành phần cấu trúc tế bào. Bạn có nhớ giải Nobel của Otto Warburg không? Nó được dựa trên nghiên cứu của ông về các sắc tố tế bào trong hô hấp tế bào. Ông tin tưởng chắc chắn rằng tất cả các bệnh thoái hóa là kết quả của sự thiếu ô-xy ở cấp độ tế bào. Câu nói của ông thường được trích dẫn là: “Ung thư chỉ có một nguyên nhân chính. Đó là sự thay thế hô hấp ô-xy bình thường của các tế bào trong cơ thể bằng hô hấp kị khí của tế bào.”
Bác sĩ Warburg chỉ ra rằng chất nào lấy đi ô-xy của tế bào là chất gây ung thư. Năm 1966, ông tuyên bố rằng việc đi tìm các chất gây ung thư mới là vô ích, bởi vì kết quả cuối cùng của mỗi lần tìm là như nhau, tế bào bị tước đi ô-xy. Ông cũng nói thêm rằng việc tìm kiếm không ngừng các chất gây ung thư mới là phản tác dụng vì nó che khuất nguyên nhân chính, thiếu ô-xy, và do đó ngăn cản điều trị thích hợp. Một khi mức độ ô-xy có sẵn cho một tế bào giảm xuống dưới 40% so với bình thường, tế bào buộc phải chuyển sang phương pháp kém hơn để sản xuất năng lượng gọi là lên men. Khi đó tế bào mất đi sự điều chỉnh sao chép vì tự kích thích với các yếu tố tăng trưởng (như IGF) để đáp ứng tình trạng thiếu ô-xy.
Định nghĩa đơn giản, “ô-xy hóa” là sự tương tác giữa ô-xy và bất kỳ chất nào nó tiếp xúc. Thở ô-xy là một quá trình “ô-xy hóa”. Không thể có cuộc sống nếu không có quá trình ô-xy hóa. Cơ thể sử dụng ô-xy hóa như tuyến đầu tiên bảo vệ chống lại vi khuẩn, vi-rút, nấm men và ký sinh trùng. Khi chúng ta sử dụng những nguyên lý chính của ô-xy hóa để mang lại những cải thiện trong cơ thể, việc đó được gọi là “liệu pháp ô-xy hóa”.
Hầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua các cơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm ô-xy hóa. Bất cứ khi nào một chất bị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “ô-xy hóa” (tức là mất đi electron) để các phản ứng giữ “cân bằng”. Một ví dụ, ô-xy hóa là quá trình gây gỉ kim loại (ô-xy hóa chậm) hoặc cháy (ô-xy hóa nhanh).
Có hai chất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi nhận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh tim, ung thư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide và ôzôn (O3), được sử dụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp ô-xy hóa sinh học”. Nhà nghiên cứu hàng đầu về các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là bác sĩ Charles H. Farr, người được đề cử giải Nobel Y học năm 1993 cho công trình của mình.
Triết lý đằng sau liệu pháp ô-xy hóa sinh học rất đơn giản. Nếu hệ thống ô-xy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ ăn uống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở không đúng), cơ thể không thể loại bỏ thỏa đáng các độc tố. Các liệu pháp ô-xy hóa sinh học được sử dụng để cung cấp cho cơ thể ô-xy dạng tích cực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống lại bệnh tật.
Khi peroxide hydrogen hoặc ô-zôn trong cơ thể tách nhỏ thành vô số gốc ô-xy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh vật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô thiếu hụt hoặc bị bệnh. Nó chỉ ô-xy hóa các tế bào này trong khi không đụng đến các tế bào khỏe mạnh nguyên vẹn. Khi cơ thể trở nên bão hòa với những hình thức đặc biệt này của ôxy, nó đạt đến trạng thái tinh khiết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ bản bị ô-xy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh hơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch.
Ô-zôn được Fridereich Schonbein phát hiện vào năm 1840. Nó là ô-xy trong “mối quan hệ tay ba”, một hình thức kích hoạt ô-xy với ba nguyên tử. Ban đầu, ô-zôn được sử dụng để khử trùng vết thương trong Thế chiến thứ nhất. Liệu pháp ô-zôn làm tăng tốc độ chuyển hóa ô-xy và kích thích giải phóng các nguyên tử ô-xy trong máu. Trong khoảng thời gian 20-30 phút, ô-zôn tách ra thành hai nguyên tử ô-xy bình thường và một nguyên tử ô-xy đơn có tính ô-xy hóa. Chính ô-xy đơn này nhắm vào các tế bào bị bệnh.
Điều đã được minh chứng là ô-zôn có thể “làm nổ tung” các lỗ xuyên qua màng của các vi-rút (HIV), nấm, men, vi khuẩn và các tế bào mô bất thường (tế bào ung thư) trước khi tiêu diệt chúng, mà không làm tổn hại các mô bình thường. Ô-zôn là trọng tâm của nhiều nghiên cứu trong những năm 1930 ở Đức, tại đó ô-zôn đã được sử dụng thành công để điều trị cho bệnh nhân bị viêm ruột, viêm loét đại tràng, bệnh Crone, và tiêu chảy mãn do vi khuẩn.
Ô-zôn y tế được làm từ ô-xy tinh khiết kết hợp với năng lượng điện (sử dụng một máy phát ô-zôn) để tạo thành ô-zôn. Ô-zôn có thêm một phân tử ô-xy (ô-xy đơn) mà nó không muốn ở đó, vì vậy nó tách ra và cố gắng liên kết với các phần tử khác như carbon monoxide (rất nguy hiểm) và biến nó thành carbon dioxide (cơ thể biết phải làm gì với nó). Cơ thể chúng ta thích ô-xy, cho nên ô-xy đơn đó bị ăn ngấu nghiến bởi mọi thứ tốt trong cơ thể và tiêu hủy mọi thứ xấu, vì tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, vi-rút, nấm mốc, nấm, ký sinh trùng, và ung thư rất ghét ô-zôn. Sau khi ô-xy đơn biến mất, thì còn lại ô-xy.
Vậy, làm thế nào đưa được ô-zôn vào cơ thể? Một phương pháp tuyệt vời là thông qua ô-zôn IV (tiêm một chất lỏng bão hòa ô-zôn vào máu). Một phương pháp hiệu quả là liệu pháp autohemotherapy (qua chai truyền dịch), 10-15 ml máu được lấy ra khỏi cơ thể, bão hòa với ô-zôn, và sau đó đưa trở lại vào cơ thể. Có lẽ liệu pháp ôzôn hiệu quả nhất trong tất cả là tắm hơi ô-zôn, với ứng dụng kép của ô-zôn và thân nhiệt cao. Tiêm trực tiếp thì mạnh, nhưng gần như không có sẵn như tắm hơi ô-zôn, thứ mà hầu như người nào cũng có thể sử dụng tại nhà cho bản thân và gia đình rất tuyệt vời.
Hãy nhớ rằng, năng lượng của ô-zôn thực hiện công việc này. Do đó, ô-zôn luôn được coi là liệu pháp điện (electrotherapy). Như Tesla nói, ô-xy chỉ là vật dẫn điện vào cơ thể. Ô-zôn kích thích sự sản xuất các cytokine. Cytokine là các “tế bào sứ giả” như các protein kháng vi-rút và chất sát khuẩn trong bạch cầu, kích hoạt phản ứng của những thay đổi tích cực trong toàn hệ miễn dịch. Việc tăng cường sự có mặt của ô-xy lần lượt hỗ trợ các chức năng trao đổi chất và giải độc của tất cả các cơ quan trong cơ thể.
Như tôi đã đề cập, không giống như phần lớn các vi khuẩn, nấm và vi-rút, Chúa đã thiết kế cơ thể chúng ta để tự bảo vệ đối với phản ứng của ô-xy đơn. Đó là nhờ việc sản xuất tế bào của enzyme phòng thủ [superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GPx), glutathione reductase (GR), và catalase]. Để tạo ra các enzyme này cần một lượng năng lượng thích hợp, nhưng tế bào ung thư yếu ớt sẽ không có năng lượng để tạo ra chúng. Thế nên, nó bị ô-xy đơn tấn công.
Theo đó ô-zôn không làm hại các tế bào khỏe mạnh, nhưng có “tính diệt khuẩn, diệt nấm và diệt vi-rút rất rõ rệt và vì thế được sử dụng rộng rãi trong khử trùng vết thương, cũng như vi khuẩn và virút gây bệnh” (R. Viebahn Haensler, The Use of Ozone in Medicine ‒ Sử dụng Ô-zôn trong y học). Ô-zôn chọn lọc chất độc, thế nên kết quả cuối cùng là liệu pháp ô-zôn diệt vi khuẩn, vi-rút, nấm, và men có hại nhưng không đụng đến các tế bào khỏe mạnh.
Tạp chí Science ngày 22 tháng 8 năm 1980, có một báo cáo do một số bác sĩ y khoa viết (Sweet, Kao, Hagar, và Lee) tựa đề Ozone Selectively Inhibits Growth of Human Cancer Cells (Ô-zôn chọn lọc ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư ở người). Báo cáo nói: “Sự phát triển của các tế bào ung thư ở người đến từ ung thư phổi, vú và tử cung đã được ngăn chặn một cách chọn lọc với liều phụ thuộc ô-zôn ở 0,3 đến 0,8 phần triệu ô-zôn trong không khí xung quanh trong tám ngày nuôi cấy. Nhị bội nguyên bào sợi phổi người hoạt động như những tế bào kiểm soát không ung thư. Sự hiện diện của ô-zôn ở 0,3 đến 0,5 phần triệu đã ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tương ứng 40% và 60%. Các tế bào phổi không ung thư không bị tác động ở những mức này. Tiếp xúc với ô-zôn tại 0,8 phần triệu ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư hơn 90% và kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào nhỏ hơn 50%. Rõ ràng cơ chế phòng vệ chống lại ô-zôn gây tổn hại đang bị suy giảm trong các tế bào ung thư ở người.” Bằng chứng từ những nghiên cứu này của các bác sĩ là không thể chối cãi.
Cả EPA (Cục bảo vệ môi trường Mỹ) và FDA thừa nhận khả năng ô-xy hóa của ô-zôn là hơn 99,99% cho tất cả tác nhân gây bệnh qua đường nước.
Ô-zôn đã được sử dụng vào mục đích sức khỏe từ năm 1860, và hiện đang được sử dụng tại hơn 16 quốc gia. Sử dụng rộng rãi nhất là ở Đức, nơi có hơn 7.000 bác sĩ đã điều trị cho hơn 12 triệu người kể từ Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đoán được, FDA không cho phép thử nghiệm ô-zôn, và đã ngược đãi các bác sĩ sử dụng nó.
Theo bác sĩ Hans Nieper, người đã sử dụng ô-zôn ở Hanover, Đức: “Bạn sẽ không tin có bao nhiêu quan chức FDA hay họ hàng người quen của các quan chức FDA đến chỗ tôi khám ở Hanover đâu. Bạn sẽ không tin điều này, họ hoặc là các giám đốc của AMA hoặc ACA, hoặc các chủ tịch của các viện ung thư chính thống. Đó là một thực tế.” Ngoài ra, nhiều người nổi tiếng đến Đức để được bác sĩ Nieper điều trị, có cả Tổng thống Ronald Reagan, Sir Anthony Quinn, William Holden, John Wayne, Yul Brynner.
Hydrogen peroxide (H2O2) tham gia tất cả các quá trình quan trọng của cuộc sống và phải có mặt trong hệ miễn dịch giúp hệ này hoạt động bình thường. Sữa non (trong sữa mẹ) có nồng độ H2O2 rất cao. Các tế bào trong cơ thể làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng sản xuất H2O2 tự nhiên như tuyến đầu bảo vệ chống lại sự xâm nhập của sinh vật (như ký sinh trùng, vi rút, vi khuẩn, và men). Bác sĩ Charles Farr đã chỉ ra rằng H2O2 kích thích hệ thống enzyme ôxy hóa trong cơ thể, gia tăng mức độ trao đổi chất, làm các động mạch nhỏ giãn ra và tăng lưu lượng máu, tẩy sạch độc tố, tăng nhiệt độ cơ thể, và tăng cường phân phối và tiêu thụ ô-xy của cơ thể. H2O2 cũng kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu rất cần thiết để chống nhiễm trùng.
Vào những năm 1950, bác sĩ Reginald Holman đã tiến hành các thí nghiệm liên quan đến việc sử dụng H2O2 bổ sung vào nước uống của những con chuột có khối u ung thư. Các khối u đã biến mất hoàn toàn trong vòng 15 đến 60 ngày. Vào những năm 1960, các bác sĩ châu Âu bắt đầu kê H2O2 cho bệnh nhân. Ngay lập tức, việc sử dụng H2O2 đã trở thành một phần được chấp nhận của y tế chủ đạo ở Đức, Nga và Cuba. Trong một bài báo, bác sĩ Kurt Donsbach viết: “30 gam 35% hydrogen peroxide (cho mỗi 3,785 lít nước) trong bình phun hơi mỗi đêm trong phòng ngủ khí thũng sẽ giúp người ta hít thở thoải mái hơn! Tôi làm điều này cho bệnh nhân ung thư phổi của mình.”
Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao H2O2 sùi bọt khi bạn đổ nó vào vết thương? Lý do nó sùi bọt là vì máu và các tế bào chứa một loại enzyme gọi là “catalase”. Vì vết cắt hoặc vết xước có chứa cả máu và các tế bào bị tổn thương, nên có rất nhiều catalase trôi nổi xung quanh. Khi catalase tiếp xúc với hydrogen peroxide, nó sẽ biến hydrogen peroxide (H2O2) thành nước (H2O) và khí ô-xy (O2). Catalase làm việc này cực kỳ hiệu quả, lên tới 200.000 phản ứng trong một giây! Những bong bóng bạn nhìn thấy trong bọt là bong bóng ô-xy tinh khiết được catalase tạo ra.
Một phương pháp tuyệt vời để cung cấp H2O2 là cho H2O2 yếu, rất tinh khiết (0,0375% hoặc nồng độ thấp hơn) vào dung dịch nước đường hoặc muối, giống như sử dụng truyền tĩnh mạch ở bệnh viện. Truyền liều 50 đến 500 ml từ từ vào tĩnh mạch lớn, thường ở cánh tay, trong khoảng thời gian 1 đến 3 giờ tùy thuộc vào lượng ấn định và điều kiện của bệnh nhân. Thường điều trị khoảng một lần một tuần cho bệnh mạn tính, nhưng có thể sử dụng hằng ngày đối với bệnh nhân HIV và ung thư. Bác sĩ sẽ xác định tổng số lần xử lý cần thiết để điều trị tình trạng cụ thể của bạn. Hơn nửa thế kỷ qua, hàng chục ngàn bệnh nhân đã được điều trị H2O2 mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng hydrogen peroxide mua ở cửa hàng tạp hóa chứa hóa chất độc hại. Nó chỉ dành để sử dụng ngoài da. Bệnh nhân ung thư nên tránh xa dạng này của H2O2. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư sử dụng H2O2 bên trong cơ thể cũng nên sử dụng một enzyme phân hủy protein chất lượng (như Vitälzym), nó sẽ cắt qua lớp phủ protein trên tế bào ung thư và cho phép H2O2 thâm nhập xuyên qua thành tế bào. Nếu đang theo chế độ ăn Budwig, bạn nên tránh ăn thực phẩm cung cấp H2O2 vì sự tương tác của các chất béo với H2O2 có thể gây tổn hại dạ dày.
Gần 200 năm trước, dưới thời trị vì của Nữ hoàng Victoria, người dân Ấn Độ (thuộc địa của Anh khi đó) nhận thấy cho thêm lượng nhỏ H2O2 vào nước uống có thể chữa khỏi nhiều bệnh như cảm lạnh, cúm, tả và sốt rét. Sự hiểu biết này đe dọa việc bán thuốc của “Big Pharma Anh”, vì vậy nước Anh đã gửi một nhân viên “đặc vụ” đóng giả bác sĩ và tuyên bố rằng H2O2 gây tổn thương não do virút. Ông ta thậm chí còn dựng lên câu chuyện về một em bé (không tồn tại) đã chết vì tổn thương não sau khi uống H2O2. Do xuất phát từ một “bác sĩ”, nên câu chuyện bịa đặt đó đã được chấp nhận là “thật”, và người dân Ấn Độ đã bắt đầu mua các loại thuốc của Anh
Nghe quen quen, phải không? Kỹ thuật tương tự như thế vẫn đang được mafia y tế sử dụng ngày nay. Bất chấp số lượng lớn các dữ liệu khoa học xác nhận những hiệu ứng sinh học và hóa học tuyệt vời của ô-zôn và hydrogen peroxide, một mảng lớn trong ngành y tế vẫn tiếp tục bỏ qua hoặc cố tình phớt lờ những liệu pháp điều trị cực kỳ đơn giản và không tốn kém.
Một phòng khám có sử dụng các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là Trung tâm điều trị y tế thay thế và chống lão hóa Nevada của bác sĩ Frank Shallenberger, ở thành phố Carson, Nevada. Theo bác sĩ Shallenberger, ô-zôn và hydrogen peroxide thực sự làm tăng hiệu quả của hệ enzyme chống ô-xy hóa, dọn sạch các gốc tự do dư thừa trong cơ thể. Ngoài ra còn tăng cường miễn dịch tế bào. Trang web của họ là www.antiagingmedicine.com. Một phòng khám tuyệt vời khác là Chăm sóc Y tế và Phục hồi, do bác sĩ Ross Hauser điều hành, ở Illinois. Trang web của họ là www.CaringMedical.com.
Cuối cùng, nếu quyết định sử dụng liệu pháp ô-zôn, bạn phải liên hệ với bác sĩ Saul Pressman, người mà tôi gọi là “bậc thầy ô-zôn”. Ông điều hành nhóm thư điện tử: ozonetherapy@yahoogroups.com. Chỉ cần tham gia nhóm và gửi email cho bác sĩ Pressman với bất kỳ câu hỏi nào. Ông cực kỳ nhiệt tình và luôn sẵn sàng giúp đỡ. Ông cũng đã giúp tôi về các thông tin trong phần này của cuốn sách.
Con tiếp
Nhận xét
Đăng nhận xét